Chủ Nhật, 19 tháng 1, 2014

[QSBMM] Hồi 1

Quốc sư giúp đỡ với
Tác giả: Phi Thiên Dạ Tường


. . . . . .


Hồi 1: Điềm lành



Đại Tùy, năm Đại Nghiệp thứ hai (606), Thừa tướng Dương Tố chết bệnh, chết bởi vì chúng thuyết phân vân(*).

Năm Đại Nghiệp thứ ba (607), Dương đế tức Tùy Dạng Đế xây thành Đại Hưng, vọng động binh qua, dân chúng lầm than. Con dân tứ phương chết đói, người người ăn thịt lẫn nhau.

Năm Đại Nghiệp thứ bảy (611), tháng sáu, Dương đế hạ chiếu chinh phạt Cao Câu Ly, sau gọi Cao Ly.

Tháng mười cùng năm, Vương Bạc ra lời kêu gọi nổi danh ‘Vô hướng Liêu Đông lãng tử ca’ phát động dân biến, nổi dậy khởi nghĩa tại Sơn Đông.

Tiếp đến tháng mười một, lũ lụt kéo về làm ngập hơn bốn mươi quận ở Quan Đông, sau đó là đại hạn mất mùa, dân chúng phơi thây hoang dã. Nhóm đạo tặc Trương Kim Xưng, Cao Sỹ Đạt nổi dậy khởi nghĩa. Đậu Kiến Đức cửa nát nhà tan, dụ binh đào ngũ, khởi nghĩa vũ trang.

Cuối năm, Trạch Nhượng trốn tội, chạy đi thành lập Ngõa Cương trại.

Đại Nghiệp năm thứ chín (613), Dương Quảng lần thứ hai đông chinh. Thân chinh Cao Ly, khổ công bao vây thành Liêu Đông.

Ngay sau đó, khởi nghĩa nông dân nổ ra ở các nơi giống như tinh hỏa liêu nguyên, rồi lan ra nhanh chóng trên bản đồ Đại Tùy. Cũng tại năm này, con trai của Dương Tố là Dương Huyền Cảm tay cầm trọng binh, hướng Dương đế tuyên chiến, châm dậy một hồi loạn thế phong yên.



Đại Nghiệp năm thứ chín, tháng năm.

Vùng biên cương âm vang bốn phía. Sương mù dày đặc. Mặt trời lặn cô thành bế.

Bầu trời ráng chiều, một vòng huyết sắc cuối cùng chậm rãi chìm vào trong cõi thiên địa. Ở phương xa, quầng mây quay cuồng, tiếng sấm rền vang, dự báo có điềm sắp xảy đến. 

Mưa to rơi dai dẳng không dứt, khiến cho ai nấy đều cảm thấy khó chịu, ngay cả Dương Quảng đang ngự giá thân chinh cũng không tránh khỏi.

Vây công Liêu Đông bấy lâu nay vẫn không có kết quả. Thi thể binh lính chất chồng dưới chân thành đã chừng một trượng cao. Trong Liêu Hà thì nhiễm đầy máu tươi, cả tháng trời cũng không phai nhạt hết. Đêm khuya, Dương Quảng cởi xuống khải giáp, trở lại trong quân trướng, vẫy lui binh sĩ. Ngoài trướng canh phòng nghiêm ngặt.

Quầng mây hội tụ thành từng tầng trên bầu trời, hình thành dị tượng, phảng phất như có thể cuốn đi tất cả tinh tú trên bầu trời mênh mông vào trong dòng xoáy, bốn phương tám hướng rực lên hồng quang.

Các binh sĩ đều phát hiện, tấm tắc kêu lạ, giống như long khí thiên tử ứng thượng chư thiên. Chính lúc đang châu đầu ghé tai vào nhau, đột nhiên một tia sét chớp lên xé rách màn trời đêm, ầm ầm rơi xuống, chém thẳng ngay trung tâm quân doanh.

Dương Quảng đế kỳ trong nháy mắt bị bẻ gẫy. Vị chỉ huy viễn chinh này mới từ trong mơ bừng tỉnh dậy. Trướng bồng phủ sụp trùm xuống mặt đất. Bốn phía một mảnh mông lung, trong bóng tối, nơi nơi trỗi dậy âm thanh lo lắng.

Lữ Trọng Minh bị rơi đến trước mắt trăng sao lẫn lộn. Sau đó phát hiện mình đang ngồi lên một gã nam nhân, liền liêu xiêu lảo đảo mà đứng dậy, mờ mịt nhìn hắn.

“Cha...... Cha đâu rồi?” Lữ Trọng Minh mờ mịt nói: “Ta đang ở đâu? Đây là đâu? Cha!”

Dương Quảng nghẹn họng trân trối nhìn Lữ Trọng Minh ở trước mặt.

Dương Quảng dò xét Lữ Trọng Minh từ đầu đến chân. Vạn tự kim quang trên cổ Lữ Trọng Minh sáng lên thoáng cái, liền lập tức chìm xuống. Cho dù như thế cũng làm Dương Quảng sợ không nhẹ.

Dương Quảng thần sắc ngưng trọng. Bất kể như thế nào cũng không đoán được trước mặt một màn này, lấy làm lạ hỏi: “Ngươi là ai?”

Lữ Trọng Minh ngơ ngác nói: “Ta... Ta là ai? Ngươi... Ngươi là ai? Cha ta đâu?”

Một lát sau, Dương Quảng quát lên một tiếng như sấm.

“Bắt thích khách --!”

Lữ Trọng Minh vô thức mà lui về phía sau, ngã lăn quay một cái, theo bản năng xoay người bỏ chạy. Cả quân trướng đều bị kinh động. Mười vạn đại quân ba tầng ngoài, người ngựa lớp lớp. Lữ Trọng Minh vừa xông ra liền bị dọa sợ đến choáng váng. Sao lại có nhiều người như vậy? Người nào người nấy đều mặc khôi giáp trên mình? Nơi này lại là đâu?!

“Bắt thích khách --!”

“Chạy hướng bên kia!”

Các binh sĩ ồ ạt dâng lên như thủy triều, hơn ngàn người đều cầm vũ khí trong tay. Lữ Trọng Minh đầu óc mê muội, trong đêm tối lại không phân được phương hướng. Hắn đứng chết trân một chỗ trên đất trống, bốn phía khắp nơi giăng đầy người.

“Bệ hạ có lệnh -- bắt sống --” Một viên quan tướng giục ngựa vọt tới.

Lữ Trọng Minh bị hơn một ngàn cây đuốc chiếu vào, trên đất trống liền giống như ban ngày. Hắn đứng đó thở không ngừng, trong ngực lóe lên từng trận kim quang, là mảnh Long Lân phụ thân cho hắn đang phát sáng.

Các binh sĩ tỏ vẻ sợ hãi, nào là ‘yêu quái’, ‘dị triệu’ líu ríu vang lên không ngừng, cho đến khi có người chạy từ trong trướng ra, hô: “Còn chần chờ cái gì! Nhanh bắt lại!” Lữ Trọng Minh vô thức muốn đưa tay sờ vào trong ngực áo nhưng không kịp, các binh sĩ liền đồng loạt lao tới, cùng lúc xông về phía hắn. Lúc này có người lẻn vào sau lưng Lữ Trọng Minh, dùng côn đánh vào gáy của hắn một cái.

Lữ Trọng Minh trước mắt tối sầm, ngã sóng soài trên mặt đất. Các binh sĩ đồng loạt tiến đến, trói hắn giống như cái bánh chưng, mang vào trong doanh trướng.

Đêm hôm khuya khoắt lại xảy ra loại chuyện này làm cho Dương Quảng sợ đến mất mật, đứng ở trong trướng không ngừng thở hổn hển. Sau đó liền triệu tập thủ hạ, trong trướng nhất thời dư luận xôn xao bàn tán, Dương Quảng nói: “Đây rốt cuộc là... thứ yêu vật gì? Cũng dám cả gan xông vào doanh trướng của trẫm?! Lai Hộ Nhi! Truyền Lai Hộ Nhi đến mau!”

Các bộ hạ đưa mắt nhìn nhau, một vị lão tướng khom người nói: “Thần tại, có thần ở đây bệ hạ không cần phải kinh hoảng. Bệ hạ chính là chân mệnh thiên tử, bọn yêu vật tầm thường tuyệt sẽ không dám mạo phạm đến gần.”

Dương Quảng lúc này mới dần dần bình phục khí tức được đôi chút, lại có một gã tướng lĩnh mở miệng nói: “Bệ hạ, binh lính trong quân đều nói tối nay thiên tượng dị thường, chính là... trời ban điềm lành xuất hiện.”

Dương Quảng kinh nghi bất định, nghĩ lại liền nhớ đến kim quang lập loè sau, thình lình có một thiếu niên nhào vào trên người mình. Hai người ở tại trong trướng đối mặt nhau trong giây lát. Thiếu niên mặt mày đoan chính, da bạch môi hồng, thần thái không giống như mang yêu khí, ngược lại càng thanh tịnh sạch sẽ.

“A.” Dương Quảng trấn định lại, gật đầu nói: “Điềm lành hiện ra. Vậy cứ lấy đó mà giải thích cho toàn quân, ngăn chặn lời đồn. Lai Hộ Nhi, ngươi lưu lại.”

Các tướng lĩnh liền đều tản đi, chỉ riêng lão tướng này ở lại. Dương Quảng ở trong trướng bước đi thong thả vài bước, hỏi: “Yêu này... Điềm lành này, hiện đang bị giam ở chỗ nào?”

Lai Hộ Nhi nói: “Hồi bẩm bệ hạ, thiếu niên kia hiện bị nhốt trong mộc lao, hôn mê chưa tỉnh, không có dị biến. Đoạn Văn Chấn cùng Mạch đại phu đều nhìn qua, khẳng định không hề giống vật tà nịnh.”

Dương Quảng tâm chấn định, đáp: “Ngươi dẫn trẫm đi xem.”

Trời tảng sáng, Dương Quảng cùng Lai Hộ Nhi đi vào trong tù doanh. Lữ Trọng Minh vẫn còn hôn mê bất tỉnh, bị trói tượng như cái bánh chưng nằm cuộn người trong góc.

Binh sĩ đưa lên một vật, cung kính nói: “Bệ hạ, vật này tìm được từ trên người của hắn.”

Dương Quảng tiếp nhận vật kia, gặp không phải vàng cũng không phải ngọc. Một mảnh hơi mỏng, khi cầm trong tay liền chiếu sáng cả doanh trướng, lúc này giật mình không nhỏ.

“Đây là bảo vật gì?” Dương Quảng chưa bao giờ thấy qua bậc này dị bảo, vừa thấy liền nổi lòng tham muốn chiếm làm của riêng, cất vào trong ngực, dùng ánh mắt ý bảo, binh lính hai bên liền tiến lên. Một chậu nước đá giội lên đầu của Lữ Trọng Minh, khi đó tiết trời đã là cuối mùa xuân, băng tuyết Liêu Đông tan dần, nước đá rét lạnh đến thấu xương. Lữ Trọng Minh nhất thời quát to một tiếng, tỉnh lại, nhìn đến mọi người hai bên, toàn thân co rúm sợ hãi.

Dương Quảng nhìn thẳng hắn một lát, hỏi: “Ngươi là người phương nào?”

Lữ Trọng Minh nói: “Ta....Ta là...”

Lữ Trọng Minh vừa mới giãy dụa, liền phát hiện mình bị trói trước đó, lập tức hét lớn: “Thả ta ra! Ngươi muốn làm gì!”

“Lớn mật!” Lai Hộ Nhi giận dữ mà nói: “Ngươi có biết người đang đứng trước mặt ngươi là ai hay không?! Vị này chính là bệ hạ!”

“Bệ...... Bệ hạ?” Lữ Trọng Minh mờ mịt nói: “Bệ hạ là cái gì? Ngươi lại là ai vậy?”

Dương Quảng phẩy tay áo, hỏi: “Nhà của ngươi ở phương nào? Tên gọi là gì?”

“Danh tự...” Lữ Trọng Minh kiệt lực nhớ lại, vẻ mặt tràn đầy thống khổ, chỉ thấy trong đầu ông ông không ngừng, nghĩ tới nghĩ lui đều là một đoàn kim quang.

Dương Quảng: “Cha mẹ là nhân sỹ phương nào? Còn có huynh đệ tỷ muội?”

“Cha...” Lữ Trọng Minh lẩm bẩm nói: “Trọng Minh... Ta gọi là Lữ Trọng Minh!”

Lữ Trọng Minh chỉ nhớ có một thanh âm quen thuộc gọi mình là Trọng Minh, rốt cuộc cũng không nhớ nổi thêm gì nữa. Hắn bị trói rất khó chịu, nói: “Ngươi thả ta ra!”

“Lữ Trọng Minh?” Dương Quảng như suy nghĩ điều gì, lại hỏi: “Ngươi làm sao vào được trong doanh trướng của trẫm?”

Lữ Trọng Minh mờ mịt lắc đầu, cái gì cũng không nhớ nổi. Cảm thấy mình đã quên một chuyện rất quan trọng. Lai Hộ Nhi xem đứa nhỏ này vẻ mặt mờ mịt, nhìn cỡ nào cũng chỉ lớn bằng một nửa của cháu mình, mặt mày lại đoan chính, không hề hiện lệ khí, càng như một công tử, liền cảm thấy đồng tình thêm đôi chút.

“Có thể là do lúc té xuống đụng trúng đầu.” Lai Hộ Nhi hướng Dương Quảng nói: “Bệ hạ, đứa nhỏ này không giống kẻ gian ác.”

Dương Quảng nhẹ gật đầu, chẳng biết tại sao lại nảy sinh ý muốn thân cận với người thiếu niên này, thích thú nói: “Cởi dây thừng ra cho hắn, nhưng đừng thả hắn ra, để cho hắn từ từ ngẫm lại.” Nói xong lại hướng Lai Hộ Nhi nhỏ giọng nói: “Như một điềm lành vậy.”

Dây thừng trên người Lữ Trọng Minh được cởi bỏ. Dương Quảng vốn tính hỏi thăm thêm vài câu, lại có binh sĩ tới, khom người nói: “Bệ hạ, Vệ Úy Thiếu Khanh Lí Uyên cầu kiến.”

Dương Quảng trong nội tâm vừa động, xoay người nói: “Từ Huỳnh Dương chạy đến Liêu Đông xa như vậy?”

“Quan nội có quân báo khẩn cấp.” Binh sĩ thấp giọng nói.

Dương Quảng không đế ý thiếu niên trước mặt, bản thân liền vội vàng rời khỏi.

Trong quân trướng, Lí Uyên một thân phong trần mệt mỏi, bên người đứng một vị tăng nhân trẻ tuổi. Lí Uyên sắc mặt thì xám xịt như tro, tăng nhân trẻ tuổi lại khí định thần nhàn.

“Bệ hạ.” Lí Uyên nói: “Sở quốc công Dương Huyền Cảm khởi binh mưu phản! Xâm chiếm đông đô!”

Dương Quảng cả kinh, cái này không phải là chuyện đùa, tiện đà phẫn nộ đến nói không nên lời, quát: “Hay cho Dương Huyền Cảm lá gan thật lớn!”

Dương Huyền Cảm chính là con của khai quốc công thần Dương Tố. Dương Tố khi còn sống quyền khuynh thiên hạ, sau khi chết để lại cho tử tôn. Dương Quảng trước khi xuất chinh giao cho Huyền Cảm lĩnh quân đốc lương tại Lê Dương, không ngờ nói phản liền phản. Trước mặt Lí Uyên vừa tuôn mồ hôi lạnh vừa thông báo quân tình. Dương Huyền Cảm khởi binh sau liền như thế chẻ tre, đã tiến sát vào Lạc Dương.

Dương Quảng nửa đêm bị kinh hãi, rồi lại nhận được tin dữ, lúc này đầu liền đau như nứt ra. Sau nửa ngày nói không ra lời, nắm tay siết chặt, vị tăng nhân trẻ tuổi đứng bên cạnh Lí Uyên mới nói: “Bệ hạ không cần lo lắng, đại loạn này sau một thời gian nhất định sẽ được bình ổn.”

Dương Quảng biến sắc, Lí Uyên vội hỏi: “Vị này chính là Gia Tường tự Cát Tàng đại sư, thần không biết...”

“Bệ hạ.” Tăng nhân trẻ tuổi giương mắt nhìn về phía Dương Quảng, giải thích nói: “Bần tăng vì tìm một người, ven đường hướng bắc, trùng hợp tao ngộ với Vệ Úy Thiếu Khanh, liền nảy sinh hứng thú đồng hành cùng một đường. Trước bần tăng đến Trung Nguyên gặp qua bao chuyện binh đao sát lục, oán khí này ngày càng nặng, vốn là điềm xấu. Thế nhưng phương bắc trời ban điềm lành, lường trước bệ hạ nếu ngay lúc này hồi đông đô, tất sẽ đại thắng.”

Dương Quảng nghe thấy lời này mới thoáng an tâm chút ít, nhìn chăm chăm vào vị tăng nhân nho nhã ở trước mặt, chợt nhớ tới cái gì, hỏi: “Ngươi là Pháp Lãng đại sư...”

Cát Tàng gật đầu nói: “Năm đó bần tăng cùng bệ hạ đã từng gặp qua một lần.”

“A.” Dương Quảng nghĩ tới, nói: “Tại Hội Kê ở Gia Tường tự, ngươi thay Pháp Lãng đại sư giảng kinh, năm đó...”

“Năm đó bần tăng mười chín tuổi.” Cát Tàng chắp tay trước ngực, khẽ gật đầu.

Đại địch phía trước, Dương Quảng lại cùng một gã tăng nhân ôn chuyện cũ. Quan quân đầy trướng lòng như lửa đốt, hết lần này tới lần khác lại không thể làm gì được, đành hậm hực mà nghe con lừa ngốc này nói hết lời. Cát Tàng nói: “Bệ hạ, Trung Nguyên dân chúng tánh mạng du quan, bệ hạ không nên chậm trễ, lúc này nên sớm khởi hành cho kịp.”

Dương Quảng cứng lưỡi, đang muốn hỏi Cát Tàng về chuyện điềm lành, Cát Tàng lại nói: “Bần tăng lúc này còn có một yêu cầu quá đáng. Xin bệ hạ đưa ra vị thiếu niên rơi vào trong doanh đêm qua để bần tăng mang về.”

Dương Quảng ngẩn người, trong đầu muôn vàn suy nghĩ như thiểm điện xẹt qua, buông lời muốn chối, nói: “Thiếu niên gì cơ? Rơi tại trong doanh? Tuyệt không có việc này.”

Cát Tàng cũng sững sờ, tiện đà kiên nhẫn nói: “Bệ hạ, thiếu niên kia chính là người mà Đại Quang Minh Vương muốn tìm, thân phận đặc biệt...”

“Cái... Cái gì?” Dương Quảng có chút hồ đồ, thầm nghĩ Đại Quang Minh Vương chẳng là dân chúng trong dân gian hay xưng ‘Thích Ca Mâu Ni’, Thích Tôn Thị Dã hay sao. Nhưng Thích Tôn không phải đã chết rồi... Không phải đã thành Phật rồi sao? Một vị phật, còn có thể sai phái thủ hạ tăng nhân đến tìm mình đòi người?

“Nghe đại sư nói, chính là có yêu tà trà trộm vào trong quân?” Lí Uyên cũng không hiểu cớ sự ra sao. Trên đường đi Cát Tàng chưa bao giờ đề cập việc này với hắn, mà chỉ nhờ hắn dẫn vào diện kiến Dương Quảng một chút.

Cát Tàng liền vội mỉm cười, nói: “Cũng không phải là yêu tà, mà là một người rất quan trọng đối với phật môn.”

Dương Quảng khẽ nhíu mày, đáp: “Không phải yêu tà, vậy là vật mang điềm lành?”

“Cái này...” Cát Tàng cũng là lần đầu tiên cùng Dương Quảng đối chuyện, nên cũng không hiểu lắm tâm tư này của hắn, suy nghĩ sau nửa ngày, đáp: “Bệ hạ chân long hộ thể, tự nhiên có điềm lành phù hộ.”

Dương Quảng mỉm cười một cái, nói: “Đúng vậy, nhưng trẫm cũng không gặp qua thiếu niên nào cả.”

Cát Tàng sắc mặt biến khẽ thành không vui, đám người Lai Hộ Nhi lại rõ tận tường. Liền biết Dương Quảng muốn giữ lại vị thiếu niên đêm qua, có thể làm kinh động đến người trong Phật môn tìm hắn, nói không chừng thật sự là điềm lành gì đó. Lai Hộ Nhi liền dẫn đầu nói: “Cát Tàng đại sư, giờ phút này quân tình khẩn cấp, nếu đại sư vẫn không tin, không bằng cùng ta đi trong doanh tra xét, để xem có thể hay không tìm ra người này?”

Cát Tàng chỉ đành nói: “Không cần, nếu đã không xuất hiện, có thể là do bần tăng đoán sai nơi. Thiếu niên này khoảng chừng mười lăm mười sáu tuổi. Trên người mang theo một mảnh Kim Long Long Lân, bệ hạ nếu như tìm được người này, kính xin đưa đến Tuệ Nhật đàn tràng ở Dương Châu.”

Dương Quảng xưa nay tôn phật, liền gật đầu nói: “Đại sư, mời.”

Cát Tàng chắp tay trước ngực, xoay người rời đi.

Cát Tàng vừa đi, mọi người liền sinh lòng kinh ngạc, ngươi xem ta, ta xem ngươi. Dương Quảng không hề đề cập đến vị thiếu niên đêm qua, trầm giọng nói: “Quan trung chiến sự như thế nào?”

“Vệ Huyền Tướng quân đã chạy tới nghênh chiến.” Lí Uyên nói: “Bệ hạ chi bằng nhanh chóng nhập quan. Vạn nhất Dương Huyền Cảm đắc thủ du quan, quân ta trước sau khó có thể chống giữ.”

Dương Quảng nói: “Đem địa đồ quan nội tới, sau đó thông tri toàn quân nhổ trại, mau chóng lên đường.”

Ngày đó Dương Quảng cùng mọi người thương lượng trọn một ngày, cho đến lúc chạng vạng tối mới nhổ trại, hành quân cấp tốc hồi đông đô Lạc Dương. Trước khi đi chợt nhớ tới thiếu niên kia, hỏi Lai Hộ Nhi: “Lữ Trọng Minh đâu?”

Dương Quảng từ nhỏ trí nhớ siêu phàm, gặp qua người, nghe qua danh tự, đã vào tai liền không quên. Lai Hộ Nhi suy nghĩ nửa ngày mới nhớ tới là hỏi vị thiếu niên bị nhốt kia, liền đến hỏi thủ hạ, thủ hạ mới hồi bẩm, nói: “Bệ hạ, người nọ vẫn chưa ăn cơm, lại bị cảm lạnh, hiện đang phát sốt cao. Ở trong lao không ngừng gọi cha, ngoài ra không còn nói gì thêm.”

Dương Quảng nội bộ mâu thuẫn, cũng không có nhiều tâm tư để ý đến thiếu niên kia. Thầm nghĩ nếu thật là điềm lành như mọi người nói, chắc hẳn một thời ba khắc cũng không bệnh chết được, mà nếu bệnh chết thì tự nhiên chẳng phải là điềm lành. Thích thú đáp: “Đem hắn theo. Dọc đường đi cho người vào Đại Hưng xem xét, tìm một chỗ thích hợp để giam giữ. Không có mệnh lệnh của trẫm không được thả ra.”

Thủ hạ lĩnh mệnh, liền lôi Lữ Trọng Minh từ trong lao ra ném lên xe chở tù.

Cùng ngày rời đi, lại có một đội nhân mã đến quân doanh.

“Hỏi chuyện này chút, đại ca.” Người cầm đầu đút một thỏi bạc vào tay binh sĩ, binh sĩ lập tức ngầm hiểu lẫn nhau, nói: “Ngươi từ đâu tới? Thoạt nhìn không giống người nơi này.”

“Chúng ta là binh lính trú phòng thành Đại Hưng.” Người kia nói: “Tiểu nhân tên là Trương Hổ, thuộc Lý đại nhân quản hạt.”

“Lý đại nhân?” Gã binh sĩ kia nói: “Chưa từng nghe qua.”

Trương Hổ cười làm lành nói: “Chính là tây phường Lý đại nhân. Kim Cương Trí đại sư ở Đại Hưng Thiện tự nhờ cậy đại nhân nhà ta, đại nhân liền phái các huynh đệ tới tìm một đứa trẻ đến từ phương bắc. Các huynh đệ đã chạy tìm nửa tháng nay, vẫn chưa gặp được người này.”

“Người phương bắc tới?” Binh lính không giải thích được nói: “Lớn lên như thế nào? Họ thậm danh ai?”

Trương Hổ lúng túng nói: “Không rõ ràng lắm, chỉ biết là họ Lữ. Trong quân doanh gần đây có người nào đến không?”

“Mỗi ngày đều có người.” Tên binh sĩ kia nói: “Ngay cả hòa thượng cũng có, hôm nay vừa mới đến một gã.”

Trương Hổ trầm ngâm một lát, lại có người đi tới, quát: “Còn đang làm cái gì! Rút quân! Đi! Ngươi? Ngươi ở đội nào! Về cương vị của mình mau!”

Trương Hổ vừa mới tới đây, một thân Tùy binh khải giáp hỗn độn, lúc này tự nhiên không tiện cùng bọn họ giải thích rõ đầu đuôi cớ sự. Đành phải gọi bốn gã bộ hạ sang một bên thương lượng. Nhưng mà đại quân xuất phát sau liền một mảnh hỗn loạn, chỉ còn Trương Hổ trơ trọi ở đó, đành phải cùng thủ hạ tiếp tục hướng về phương bắc.

Khi đám người này lướt qua xe tù chở Lữ Trọng Minh, Trương Hổ nhìn thoáng qua Lữ Trọng Minh ngồi trong xe tù. Trên mặt tràn đầy nghi hoặc, thủ hạ lại giật giật Trương Hổ, ý bảo hắn đừng manh động. Trương Hổ đành phải tiếp tục lên đường.

Lữ Trọng Minh đầu óc hỗn loạn, bởi vậy không có nghe được bọn họ nói chuyện. Đáng thương Lữ Trọng Minh mười sáu năm trời đã quen sống trong cẩm y ngọc thực, chưa từng bị tra tấn quá như thế? Đầu tiên là ở trong Huyền Môn bị phật chưởng phong bế một thân tiên lực, ngã xuống sau liền bị mất hơn phân nửa trí nhớ, lúc ở trong lao lại bị giội cho một thân nước lạnh, giờ lại đang tháng ba giá rét, binh sĩ cũng không ai để ý tới. Gió bắc thổi qua, hai hàng nước mũi chảy ròng ròng, bắt đầu phát ra sốt cao.

Trong xe tù, cái trán của Lữ Trọng Minh nóng hổi, nói năng mê sảng, ở trong mộng còn không ngừng gọi cha. Bọn binh sĩ có khi nhàm chán liền chọc ghẹo hắn, đâm đâm đầu hắn, làm cho hắn hô tiếng cha, rồi cười hắn là tên ngốc.

“Này!” Lúc này đội trưởng chạy tới, lớn tiếng nói: “Để ý chút, đừng làm cho hắn chết! Đợi lát nữa thượng cấp đến hỏi liền khó mà trả lời!”

Các binh sĩ qua loa vài câu, có người tìm đến một bộ chăn đệm ném vào, choàng quanh người Lữ Trọng Minh. Lữ Trọng Minh chật vật không chịu nổi, nằm ở trong xe tù, có khi hôn mê, có khi tỉnh lại, như chịu tra tấn. Không bao lâu đại quân xuất phát, Tùy Dương Đế mang theo cơn thịnh nộ chạy về Trung Nguyên, muốn giải quyết tên phản đồ Dương Huyền Cảm. Lữ Trọng Minh bị gió thổi đến lạnh run cả người. Ven đường lại rơi xuống bông tuyết nhỏ. Người trong loạn thế mạng không bằng cây cỏ. Trên đường xe đi qua, tiếng kêu than trời dậy đất, người chết đói rải rác, cũng không ai chú ý đến sống chết của thiếu niên trước mắt, quả nhiên chỉ có thương thiên mới thấy được.

 Muốn biết tiếp theo thế nào, xin đợi hồi sau phân giải.


---------------------------

(*) chúng thuyết phân vân: chúng người dư luận xôn xao.


Chú thích kỳ 1:


Dương Tố: Khi phò Tùy, từng giúp Dương Kiên tham gia đoạt quyền, lại là công thần diệt Trần của Đại Tùy, được phong Thượng trụ quốc, Việt Quốc công. Phe của Dương Tố phò Tấn Vương Dương Quảng, tham dự âm mưu bí mật của cung đình, phế Thái tử Dương Dũng, xúi giục Dương Quảng giết cha đoạt ngôi, sự việc thành công, ông ta được phong Sở Quốc Công, quan đến Tư đồ,tương đương với Thừa tướng. Sinh thời Dương Tố tham lam tiền của, xây dựng nhiều phủ đệ hết sức xa xỉ. Năm Đại Nghiệp thứ 2 (606) thì bị bệnh chết. Năm Đại Nghiệp thứ 9 (613), con ông là Lễ bộ Thượng thư Dương Huyền Cảm dấy binh phản Tùy, thất bại, cả nhà bị chém.

Tùy Dạng Đế Dương Quảng: Từ nhỏ thông minh lanh lợi, được Tùy Văn Đế rất mực yêu thương. Năm 12 tuổi, được phong Tấn Vương, nhận chức Tổng quản Tĩnh Châu. Năm 588, khi mới 20 tuổi, Dương Quảng đã thống lĩnh quân đội đánh dẹp nhà Trần, đóng quân tại Giang Nam, lập được công to, một phần cũng nhờ Dương Tố hiệp trợ. Dương Quảng tham vọng tàn bạo, kết giao với các đại thần có quyền lực, đoạt lấy quyền nối ngôi của con trưởng, tiếp đến lại giết cha để đoạt ngôi (Nhưng sau này xuất hiện xác định lại ông bị oan). Khi ngồi trên ngai vàng, ông cho xây cất rất nhiều công trình lớn, ba lần chinh phạt Cao Câu Ly, lãng phí vô độ, trưng dụng phu dịch nặng nề, khiến cho dân chúng đứng lên chống lại, cơ nghiệp nhà Tùy tan rã. Năm Đại Nghiệp thứ 13, ông bị tướng lĩnh Cấm quân là Vũ Văn Hóa Cập thắt cổ chết tại Giang Đô, nhà Tùy diệt vong.

‘Vô hướng Liêu Đông lãng tử ca’ (khúc ngâm không đến Liêu Đông chết uổng): Trường Bạch Sơn đầu Tri Thế Lang, thuần trứ hồng la cẩm bối đang, hoành sóc xâm thiên bán, luân đao điệu nhật quang, thượng sơn cật chương lộc, hạ sơn thực ngưu dương. Hốt văn quan chí, đề kiếm hưỡng tiền đãng. Thí như Liêu Đông thỉ, trảm đầu hà sở chương.


-------------------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét